Phạm Việt Vinh
Có thể khẳng định ngay rằng, kể từ thời gian gần đây cho đến tương lai sắp tới, vấn đề biên giới Việt – Trung, cả trên đất liền và trên biển, là một thách đố lớn đối với đất nước Việt Nam.
Trong một bài viết mang tải những kế hoạch chiến lược của Trung Quốc đối với Việt Nam được đăng trên trang Web „Sina.com“, tác giả của bài viết (mà người ta nhận thấy rõ là một chuyên gia chiến lược của Trung Quốc) đã đề xuất là: trong khi cố gắng để biến Việt Nam trở thành một thành viên trong khối đồng minh tương lai, Trung Quốc phải „tế nhị“ trong tranh chấp biên giới với Việt Nam. Có nghĩa là, ngay cả Trung Quốc cũng xác định biên giới Việt –Trung là một „vấn đề“ lâu dài. Nhưng „tế nhị“ là trên lời nói, còn trên thực tế thì kể từ khi chiếm quyền từ năm 1949 đến nay, ban lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đã liên tục xâm lấn đất và biển của Việt Nam . Người ta chưa thể đưa ra những số liệu tuyệt đối chính xác, nhưng những nghiên cứu nghiêm túc nhất đều cho thấy Việt Nam đã mất rất nhiều. Sự mất mát này trải rộng từ diện tích đất, diện tích biển, vị trí chiến lược cho đến giá trị kinh tế trực tiếp. Và, điều quan trọng hơn cả là sự xâm lấn của Trung Quốc, sự mất mát của Việt Nam vẫn còn đầy khả năng tiếp diễn.
Ẩn sau sự tham lam cố hữu của những người mang tư tưởng Đại Hán, việc vừa thực thi, vừa đe dọa xâm lấn nằm trong chiến lược của ban lãnh đạo cộng sản Trung Quốc luôn đặt Việt Nam vào một vị thế bấp bênh, bất ổn định. Người Trung Quốc cho rằng, sự bất ổn này sẽ gây lúng túng cho chính quyền Việt Nam, sẽ làm cho Việt Nam ngả dần, và cuối cùng là phải lệ thuộc hẳn vào Phương Bắc.
Trong khi đó, thế giới văn minh ngày càng thấy rõ, sự bùng phát về kinh tế, quân sự và ngoại giao của Trung Quốc hiện nay không hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp. Mơ tưởng trở thành thế lực số 1 trên thế giới của Trung Quốc không đi đôi với hảo ý muốn mang lại thịnh vượng chung, cũng không đi đôi với kỳ vọng tạo lập một trật tự dân chủ toàn cầu theo kiểu Trung Quốc, mà chỉ là để cho người Hán trị vì thiên hạ. Sự lệ thuộc vào một ý đồ như vậy sẽ không mang lại một tương lai sáng sủa cho đất nước Việt Nam!
Đứng trước nguy cơ này, người Việt có thái độ ra sao?
Đương nhiên, trước một vấn đề của quốc gia, công dân nào cũng có thái độ của mình. Thái độ của người Việt đối với kế hoạch bành trướng của Trung Quốc có thể là tiếp tay, thờ ơ hay phản kháng, có thể là chấp thuận, chịu đưng hay là tìm phương cách chống lại. Vấn đề là thái độ đó, phản ứng đó có tác động như thế nào đối với hiệu quả bảo vệ quyền lợi của tổ quốc? Để trả lời cho câu hỏi này, trước hết, phải nhìn nhận kỹ thái độ và hành xử của chính quyền Hà Nội và nhân dân trong nước.
Thực tế, nhìn vào thái độ hiện nay của người Việt trong vấn đề biên giới Việt –Trung, sẽ thấy nổi lên một kết luận đau xót là: chính quyền Việt Nam đã và đang hoàn toàn bất lực trước ý đồ của Trung Quốc, xã hội Việt Nam đã và đang phải bất lực trước sự yếu kém của nhà nước Việt Nam!
Sẽ là quá dễ dãi nếu cho rằng, trong thâm tâm, chính quyền Hà Nội hiện nay muốn lệ thuộc vào Trung Quốc. Theo lẽ thông thường, không một chính quyền, một đảng phái nào tự nguyện muốn phụ thuộc vào kẻ khác. Nhưng „lực bất tòng tâm“, khi không tỉnh táo để nhận ra thời cuộc, khi dồn hết tâm sức để bảo vệ quyền lợi của đảng phái, của cá nhân, khi vẫn còn sẵn sàng dùng „giặc“ để trị „dân“, thì dù muốn hay không, chính quyền và ban lãng đạo Đảng cộng sản Việt Nam vẫn đã, đang và sẽ tiếp tục nằm trong vòng kiềm tỏa nguy hiểm của chính quyền độc tài Trung quốc.
Không đi sâu vào những lý do ý thức hệ, lý do phe phái muốn ngả theo Trung Quốc hay hướng tới phương Tây, lý do quyền lợi chung hay quyền lợi riêng, điều khẳng định là đối với sự xâm lấn của Trung Quốc, ban lãng đạo Đảng cộng sản Việt Nam đã luôn phải nhượng bộ, đã luôn phải hy sinh lợi ích quốc gia. Trước những hành vi ngạo mạn, trắng trợn của Trung Quốc (như đánh tráo địa danh, dời cộc mốc biên giới, hoặc đơn giản hơn là đem quân đánh chiếm), chính quyền Hà Nội đã luôn ở thế bị động, phản ứng một cách vô cùng yếu ớt, và cuối cùng là đi đến giải pháp „..chấp nhận để mất một phần“, „..hợp pháp hóa phần đã mất“ với hy vọng được để yên và không bị mất tiếp. Điều hiển nhiên là chính quyền Việt nam đã hoàn toàn không không dám sử dụng bất cứ một biện pháp thích ứng và cương quyết nào ngay cả khi Trung Quốc có những hành vi thô lậu như việc bất chấp các dữ kiện lịch sử tuyên bối thành lập huyện đảo Tam Sa, hay man rợ như việc bắn giết ngư dân Việt Nam. Rõ ràng, ban lãnh đạo Việt Nam hiện nay luôn tỏ thái độ e sợ chính quyền Trung Quốc. Sự e sợ này sẽ ngày càng tăng khi tiềm lực của Trung Quốc ngày càng lớn. Trước sự lúng túng và e sợ như vậy từ phía chính quyền Hà Nội, thì việc lấn lướt, đe dọa để thao túng của chính quyền Bắc Kinh sẽ là lẽ đương nhiên.
Thêm vào đó, người Trung Quốc cũng nhận thấy rõ rằng trong khi quá mềm yếu trong việc bảo vệ quyền lợi đất nước, thì chính quyền Việt Nam lại rất cứng rắn trong việc dập tắt những ý kiến và hành động phản đối Trung Quốc của dân chúng Việt Nam. Với ngụy biện „Ổn định xã hội“, „Ổn định chính trị“, chính quyền Việt Nam đã đàn áp thanh niên, sinh viên Việt Nam khi họ biểu tình phản đối hải quân Trung Quốc tàn sát ngư dân Việt Nam, đã bắt bớ, đánh đập thanh niên, trí thức Việt Nam khi họ muốn công khai bảo vệ (ít nhất là về mặt danh nghĩa) cho hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Trước đây, để tận dụng được „nội lực dân tộc“ nhằm chống ngoại xâm, triều đình nhà Trần đã tổ chức Hội Nghị Diên Hồng để hỏi dân „hòa hay đánh“. Ngày nay, trước hiểm họa mất đất, mất biển, chính quyền Hà Nội lại nỗ lực để làm sao dân không được biết, không được bàn, và quan trọng nhất là không được hành động chống lại. Họ khuyến dụ những thanh niên còn nhiệt huyết: „Các cháu hãy về nhà đi, việc này đã có Đảng và nhà nước giải quyết qua con đường ngoại giao“. „Con đường“ của họ là 1-2 bản tuyên bố đầy tình hữu nghị, là đàn áp biểu tình, là đánh đập, bắt giữ công dân, là cách chức nhà báo muốn bảo vệ Trường Sa, Hoàng Sa. Thực chất, chính quyền Việt Nam đã trở thành một bộ máy cấm cản và tàn phá „nội lực“ của quốc gia, đặc biệt là trong quan hệ Việt –Trung. Với một đối tác như vậy, Trung Quốc không bắt nạt Việt Nam mới là điều đáng ngạc nhiên.
May mắn cho chúng ta là sức đề kháng của quốc giaViệt Nam vẫn còn. Mặc dù đã phải trải qua hàng chục năm „lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối“ của Đảng cộng sản Việt Nam, ngày 22.01.2005, hai tuần sau khi hải quân Trung Quốc bắn giết ngư dân Việt Nam tại Thanh Hóa, hơn 20 sinh viên Việt Nam đã tự động biểu tình trước Tòa đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội. Sau khi Trung Quốc trơ tráo tuyên bố thành lập huyện đảo Tam Sa, bất chấp sự cấm cản, đàn áp của chính quyền, một làn sóng tuần hành, biểu tình phản đối Trung Quốc đã được trải rộng từ Bắc chí Nam, từ trong nước ra ngoài nước với sức lôi cuốn hàng ngàn sinh viên, học sinh. Có thể nói , đây là lần đầu tiên trong thể chế toàn trị tại Việt Nam, người dân trong nước đã dùng hành động công khai bày tỏ chính kiến không đồng nhất với chính quyền, và đã trực tiếp tỏ thái độ bất bình trước sự yếu kém của nhà nước.
Nhưng rốt cục, người ta không thể quá lạc quan khi nhìn vào hiệu quả bảo vệ Tổ quốc của phong trào phản kháng. Sau khi chính phủ Hà Nội hầu như âm thầm ký với Trung Quốc các hiệp định biên giới vào cuối năm 1999 và đầu năm 2000 làm mất hàng chục ngàn Km2 đất và biển, hàng chục tiếng nói uất hận đã được nhiều công thần chế độ cất lên. Kết quả vẫn là sự chuẩn y các hiệp ước tại Quốc hội khi mà hầu hết các đại biểu Quốc hội đều không biết rõ nội dung hiệp ước, và các tiếng than trách cũng lặng đi cùng với thời gian. Cuộc biểu tình bị đàn áp cách đây hơn 3 năm của hơn 20 sinh viên khi ngư dân Việt Nam bị tàn sát hầu như hoàn toàn không có tiếng vọng và đã không ngăn cản được việc Trung quốc mới đây lại bắt giữ ngư dân Việt nam ngay trên lãnh hải của Việt nam. Làn sóng biểu tình nhân vụ Tam Sa và rước đuốc Thế Vận Hội mới đây chứng minh lòng yêu nước, chí khí dũng cảm và tinh thần phản kháng của thanh niên Việt Nam đã chuyển sang một mức độ mới, nhưng vẫn không mang lại hiệu quả mong muốn, và hầu như không tạo ra một dư âm quốc tế. Do bị đàn áp thẳng tay, làn sóng phản kháng đã tan rã khá nhanh chóng. Sau các cuộc biểu tình, người ta không thấy sự xuất hiện một liên kết mới của những con người đã cùng chí hướng, đã cùng hàng động và ở một mức độ nào đó, đã cùng hoạn nạn. Một văn sỹ yêu dân chủ tại Sài Gòn đã phải bật khóc khi khí thế biểu tình bị tàn lụi một cách nhanh chóng và khá dễ dãi. Khi nhìn vào kết quả cuối cùng, điều nhãn tiền là xã hội Việt Nam vẫn đang phải chấp nhận, đang phải bất lực trước những hành vi kém cỏi của chính quyền Đảng cộng sản Việt Nam. Tuyên bố chung trong chuyến đi thăm Trung Quốc mới đây của ông Nông Đức Mạnh, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam về việc xây dựng một „quan hệ chiến lược toàn diện“, về mục tiêu „cùng xây dựng xã hội Xã hội chủ nghĩa dựa trên những giá trị chung“ và những thỏa thuận thực thi các hiệp ước về biên giới chứng tỏ ban lãnh đạo Việt Nam vẫn muốn bám vào Trung Quốc. Họ hoàn toàn không bị tác động bởi thái độ phẫn uất và cảnh giác đối với Trung Quốc của đại đa số người Việt.
Có hàng trăm lý do khác nhau biện minh cho tác động còn hết sức hạn chế của phong trào quần chúng Việt Nam trong vấn đề biên giới Việt –Trung, nhưng trong đó, có hai lý do nổi trội. Lý do thứ nhất: đó là một phong trào không có tính tổ chức và tự phát mang tính nhất thời. Do mang tính nhất thời, không có mục tiêu lâu dài nên sự sôi nổi ban đầu sẽ bị tan loãng bởi thời gian. Do không có tính tổ chức nên phong trào đã khựng lại khi bị công an chặn đường và hoàn toàn không có tiếng nói đối với giới truyền thông quốc tế. Lý do thứ hai, và là lý do quan trọng hơn cả: đó là phong trào đã không xác định được chính xác đối tượng của các buổi biểu tình. Có rất ít tiếng nói chân nhận được thái độ quá mềm yếu của nhà cầm quyền Hà Nội. Không khí bao trùm của phong trào chỉ là bày tỏ sự phẫn nộ đối với Trung Quốc về một sự việc đã rồi. Phong trào không hề cho thấy những đòi hỏi giải quyết cho hiện tại và tương lai. Việc nhiều sinh viên biểu tình xua đuổi sự tham gia của các nhân vật bất đồng chính kiến có thể là biểu hiện của sự e ngại cường quyền, nhưng cũng có thể là do sự thơ ngây muốn „phi chính trị hóa“ một vấn đề hoàn toàn chính trị. Tất cả những điều đó đã không góp phần làm cho xã hội qua khỏi căn bệnh bất lực trước mọi quyết định sai trái từ phía chính quyền.
Sự lúng túng và bất lực của xã hội Việt Nam nói chung và của sinh viên, thanh niên Việt Nam nói riêng được thể hiện rõ qua một chương trình của đài Á Châu Tự Do RFA. Nhân vụ Trường Sa – Hoàng Sa, RFA đã tổ chức trong một thời gian khá dài nhiều buổi trao đổi trực tuyến với thanh niên, sinh viên Việt Nam cả trong và ngoài nước. Điều đáng mừng là hầu hết giới trẻ tham gia chương trình đã đánh giá đúnh tình hình, đã thấy rõ hành vi xâm lấn, bá quyền của Trung Quốc, đã nhận ra sự yếu kém và trách nhiệm của ban lãnh đạo Việt Nam trong việc để mất đất, mất biển. Nhưng, vào buổi cuối cùng của chương trình này, giải pháp mà nhiều thanh niên trong nước đưa ra vẫn là „gửi kiến nghị, gửi thư đề nghị“ lên Đảng và nhà nước. Khi được hỏi: „Phải làm gì nếu Đảng và nhà nước không xét đến các kiến nghị này?“, thì câu trả lời của họ là: „Đành chịu thôi!“ Tuy vậy, nhận xét kết thúc chương trình của phóng viên RFA: „Như thế tức là bế tắc!“ cũng không hoàn toàn có lý. Kết luận chính xác nhất có lẽ nằm ở ý kiến của một sinh viên tham gia chương trình: Lối thoát duy nhất trong quan hệ Việt – Trung là Việt Nam phải mạnh lên!
Vấn đề là làm thế nào để Việt Nam mạnh lên?
Qua những nhận định trên đây, một phần câu trả lời đã rõ.
Quốc gia Việt Nam chỉ có thể hùng cường khi có một chế độ chính trị phát huy được „nội lực“ của dân tộc. Nội lực này chỉ mạnh khi người dân được khuyến khích và bảo vệ khi phát biểu chính kiến và tư tưởng của mình, được khuyến khích và bảo vệ khi muốn trực tiếp tham gia vào các tiến trình kinh tế, xã hội và chính trị của quốc gia. Nội lực này chỉ mạnh và được phát huy tác dụng khi người dân được thực sự tự do ngôn luận, tự do biểu tình, tự do thành lập hội đoàn, đảng phái, được tự do bầu cử và ứng cử. Có như vậy, người dân và xã hội Việt Nam mới không bị bất lực trước một nhà nước tồi dở, và thông qua đó, chính quyền Việt Nam và đất nước Việt Nam mới không bị bất lực trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia.
Đồng thời, những kinh nghiệm, những kết quả còn quá khiêm tốn của phong trào phản kháng của nhân dân Việt Nam, trong đó có phong trào phản đối Trung Quốc về vấn đề biên giới cũng đã chỉ rõ: chỉ kiến nghị, cầu xin thì sẽ không bao giờ được; và nếu không thông qua tổ chức thì sẽ không bao giờ tới đích !
@http://www.to-quoc.net/
Home >> Chính trị - Quân sự , Tin Thời sự >> Thấy gì qua thái độ của người Việt trong vấn đề biên giới Việt – Trung ?
Thấy gì qua thái độ của người Việt trong vấn đề biên giới Việt – Trung ?
Posted by (¯`·.º:¦†CDuan†™¦:-º.·´¯) on 8/22/2010 02:10:00 SA // 0 comments






0 nhận xét to "Thấy gì qua thái độ của người Việt trong vấn đề biên giới Việt – Trung ?"